NGUYÊN NHÂN THẢM BẠI THÁNG TƯ ĐEN 75 CỦA MIỀN NAM – Kỳ 4

Kỳ 4 (tiếp theo).- TẠI SAO CSBV LẠI CHỌN TÂY NGUYÊN?

* ĐẶNG VĂN NHÂM

(Foto: đại tướng Văn Tiến Dũng, tư lệnh chiến dịch 275)

Để giúp bạn đọc ở hải ngoại, sau 20 năm dài lưu vong, trí nhớ đã mòn mỏi và dù không phải là người thông thạo về binh bị, vẫn có thể nắm vững được tình hình quân sự của miền Nam, nhất là vùng quân khu 2, nơi đã xảy ra chiến trường Tây Nguyên, mục tiêu của chiến dịch 275 của CSBV trong thời điểm lúc bấy giờ, tôi xin kể tóm lược về cách thức bố phòng của quân đội VNCH,trên toàn quốc , rồi đến quân khu 2 riêng rẽ.

Nhìn lên bản đồ của miền Nam Việt Nam , chúng ta thấy bố phòng tổng quát , về mặt quân sự , được chia ra làm 4 quân khu:

– Quân khu 1, gồm các tỉnh gọi là giới tuyến, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi.
– Quân khu 2 gồm các tỉnh miền cao nguyên trung phần: Kontum, Bình Định, Pleiku, Phú Bổn, Phú Yên, Darlac, Khánh Hoà, Tuyên Đức, Quảng Đức, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Bình Thuận.
– Quân khu 3 gồm thủ đô Sài Gòn và các tỉnh: Phước Long, Long Khánh, Bình Tuy, Bình Long, Bình Dương, Biên Hoà , Phước Tuy, Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An.
– Quân khu 4 gồm các tỉnh của miền Tây Nam bộ : Gò Công , Kiến Tường, Định Tường, Kiến Hòa, Kiến Phong, Sa Đéc, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, Châu Đốc , An Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên, Kiến Giang, Chương Thiện, Ba Xuyên, An Xuyên. Mỗi quân khu có một quân đoàn chính qui , cộng thêm các lực lưọng bảo an, cảnh sát và dân vệ, để bảo vệ an ninh lãnh thổ .

Quân khu 1, có quân đoàn 1, vì là tuyến địa đầu giáp tiếp với ải địa đầu của quân CSBV nên đã được đặc biệt bố trí đến 5 sư đoàn quân chính qui ( trong số có 2 sư đoàn tổng trừ bị thuỷ quân lục chiến và nhảy dù ), cộng với 4 liên đoàn biệt động quân, 21 tiểu đoàn , và một số đại đội pháo binh, gồm khoảng 418 khẩu đại bác, 5 thiết đoàn và 6 chi đội xe tăng, thiết giáp gồm khoảng 449 xe, 1 sư đoàn không quân gồm 96 phi cơ chiến đấu.

Quân khu 2, chỉ có 2 sư đoàn chủ lực quân, là sư đoàn 22 và sư đoàn 23, cộng thêm 7 liên đoàn biệt động quân, 14 tiểu đoàn và một số đơn vị pháo binh khoảng 382 khẩu đại pháo, 5 thiết đoàn và 13 chi đội xe tăng, thiết giáp gồm 477 xe, 2 sư đoàn không quân, gồm khoảng 138 chiến đấu cơ.

Quân khu 3 có 3 sư đoàn chánh qui, 7 liên đoàn biệt động quân, 14 tiểu đoàn và một số đại đội pháo binh, gồm 376 khẩu đại pháo, 7 thiết đoàn và 15 chi đội xe tăng, thiết giáp gồm 655 xe, và 2 sư đoàn không quân, trong số có trên 250 chiến đấu cơ.

Quân khu 4 có 3 sư đoàn chính qui, 18 liên đoàn bảo an, 15 tiểu đoàn và 55 đại đội pháo binh gồm 380 khẩu đại pháo, 5 thiết đoàn và 17 chi đội thiết giáp, gồm 493 xe, và 1 sư đoàn không quân gồm 72 phi cơ chiến đấu, 580 chiếc tàu tuần giang các loại. Tổng số binh sĩ chiến đấu trong quân lực VNCH vào khoảng năm 1972 gồm 717.000 tay súng. Năm 1973 còn khoảng 650.000 quân.

Ngoài ra, tại mỗi địa phương còn có các lưc lượng cơ động thuộc tiểu khu và quân khu gồm nhiều tiểu đoàn,hay chiến đoàn bảo an. Cộng thêm vào đó, là lực lượng nhân dân tự vệ võ trang khoảng 400.000 tay súng. Đến đầu năm 1975, quân đội chánh qui của VNCH còn khoảng 495.000 ( gồm 13 sư đoàn chánh qui, và 18 liên đoàn biệt động quân), cộng với lực lượng bảo an , điạ phương quân 475.000, và khoảng 381.000 nhân dân tự vệ có võ trang và đã được huấn luyện quân sự đàng hoàng.

Đó là những con số tính trên lý thuyết, hay trên sổ lương.Nhưng quân số chiến đấu thực sự có thể ít hơn nhiều.Vì, như mọi người đều biết : Quân đội VNCH thời TT Thiệu toàn là LINH MA và LÍNH KIỂNG. Quân binh chủng nào, đơn vị nào cũng có rất nhiều lính ma và lính kiểng. Đa số là người Việt gốc Hoa, phải nộp lương tháng và quà cáp cho đơn vị trưởng, từ cấp đại đội trở lên. Nạn lính ma và linh kiểng đã làm giao động và suy giảm tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH rất nhiều.

Căn cứ trên sự bố trí ấy, ta thấy quân khu 2, vùng rừng núi cao nguyên Trung phần là một vùng đất rộng, người thưa ( tổng số cư dân khoảng 150.000 ngưòi ) hơn hết trong 4 quân khu,vẫn thường hay bị quân CSBV đánh phá nhiều trận rất nặng nề, lại chỉ được bố trí phòng vệ có 2 sư đoàn quân chánh qui là sư đoàn 22, và sư đoàn 23, cộng thêm với 7 liên đoàn biệt động quân ( quân số tương đương 10 trung đoàn ). Đa số quân của 2 sư đoàn chánh quị 22 và 23 phải trải rộng ra để bảo vệ các tỉnh Tây Nguyên gồm 5 tỉnh: Công Tum, Gia Rai, Phú Bổn, Darlac, và Quảng Đức, lại vừa phải bảo vệ các tỉnh miền duyên hải Nam Trung phần từ Bình Định đến Bình Thuận.

Hơn thế nữa, sư đoàn 2 còn phải bảo đảm quân khu 2 không bị cắt đứt liên lạc giao thông với các quân khu 3 và quân khu 1, đặc biệt nhất là phải bảo vệ an ninh các trục lộ giao thông chính yếu gồm các quốc lộ huyết mạch số 1, số 14, 19, và 21, trong đó có liên tỉnh lộ 7 nối liền Pleiku, Phú Bổn và Phú Yên.

Trong cuộc chiến Quốc Cộng ở Việt Nam , nhiều nhà nghiên cứu chiến lược và một số tưóng lãnh đã nêu lên nhận định :” Giữ được cao nguyên tức giữ được miền Nam. Ngược lại, mất cao nguyên là miền Nam sẽ thất thủ “.

( Foto: Thượng tướng Trần Văn Trà, tư lệnh quân sự B2)

Đó là một nguyên nhân đã khiến giới lãnh đạo quân sự và chánh trị miền Bắc đã chọn Vùng 2 chiến thuật làm thí điểm ” thử lửa ” đầu tiên trong chiến dịch mùa khô năm 1975. Nguyên nhân thứ nhì đã khiến quân khu 2 phải nếm mùi thảm bại trước làn sóng tấn công bất ngờ , ồ ạt của quân CSBV là lực lượng phòng vệ ít oi, thiếu kém,trải rộng và trải mỏng hơn hết trong số 4 quân khu của miền Nam. Nhưng yếu tố chính và quan trọng bực nhất đã khiến xảy ra thảm hoạ bi thương nhất trong lịch sử đấu tranh của miền Nam là :” SỰ TIẾT LỘ CƠ MẬT QUỐC PHÒNG TỪ TRONG DINH ĐỘC LẬP CỦA NGUYỄN VĂN THIỆU CHO ĐỊCH QUÂN BIẾT”.

Quân CSBV đã nắm vững được mọi chi tiết phòng thủ của quân đội VNCH , lại biết tường tận, đích xác mọi nhận định tình hình chánh trị và quân sự của Thiệu cùng với các tướng lãnh thân cận trong dinh Độc Lập. Do đó nên quân CSBV đã dễ dàng lấy một quyết định tấn công không bị trở ngại đáng kể. Để chứng minh cho điều này, tôi xin trích nguyên văn một đoạn sau đây trong hồi ký ” Đại thắng mùa xuân” của Văn Tiến Dũng, để bạn đọc cùng tường lãm :

-” …Theo tin tình báo của ta, trong 2 ngày 9 và 10. tháng 12, năm 1974, trong ” dinh Dộc Lập”, Thiệu họp với bọn tư lệnh các quân đoàn, quân khu nguỵ để phán đoán các hoạt động của ta trong năm 1975. Bọn chúng nhận định: Trong năm 1975,ta có thể đánh với qui mô lớn hơn năm 1974 nhưng không như năm 1968 và không bằng năm 1972. Ta chưa có khả năng đánh thị xã lớn hoặc thành hpố, dù có đánh cũng không giữ được. Ta chỉ có thể đánh loại thị xã nhỏ và cô lập như Phước Long, Gia Nghĩa. ..Chúng cho rằng đầu năm 1975, phương hướng tiến công của ta là đánh quân khu 3, chủ yếu là Tây Ninh, nhằm lấu Tây Ninh làm thủ đô của chánh phủ lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam. Về thời gian tiến công, địch phán đoán ta sẽ đánh trước hoặc sau tết cho đến tháng 6 năm 1975, tới lúc đó là mùa mưa thì dừng lại nghỉ…”( trang 47-48).

Trong một chương trước, tôi đã đề cập đến sự tiết lộ quân cơ bí mật trọng đại này cho địch quân biết. Ngay sau khi biên bản phiên họp ngày 9-10. 12. 1974 chưa ráo mực trên bàn giấy của đại sứ Mỹ Martin đã có một bản nguyên văn . Đồng thời chánh trị bộ trung ương đảng CS ở Hà nội cũng đã có một bản tương tợ như của đại sứ Mỹ .
Như vậy tướng lãnh nào thuộc hàng thân cận của Thiệu trong dinh Độc Lập đã đem bán ” bản tin ” quan trọng ấy cho Mỹ và cho CSBV ? hay nói cách khác đã làm điệp viên cho Mỹ và cho CSBV ?

AI ĐÃ TIẾT LỘ BÍ MẬT QUỐC PHÒNG TRONG DINH ĐỘC LẬP?

Điểm mặt những viên tướng đã hiện điện trong phiên họp quan trọng ấy, ta thấy có trung tướng Đặng Văn Quang, cố vấn đặc biệt về an ninh, tình báo của tổng thống, thủ tướng đại tướng Trần Thiện Khiêm, đại tướng tổng tham mưu trưởng quân lực VNCH Cao Văn Viên, thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình, đặc uỷ trưởng trung ương tình báo, kiêm tổng giám đốc cảnh sát quốc gia, và các tướng tư lệnh vùng, các tướng tổng tham mưu phó v.v…

( Foto: TT. Nguyễn Khắc Bình, cựu tư lệnh CSQG, kiêm cục an ninh tình báo,dân Mỹ Tho, một nghi can đã bán tin tình báo chiến lược cho Mỹ và cho CSBV từ chiến dịch 275 đến chiến dịch H.Chi Minh, để quân CSBV dễ dàng thôn tính miền Nam năm 1975.
Hình này chụp trong thời gian NK Bình đã trốn qua Mỹ, cư ngụ trong vùng Wa.DC. với đầy đủ vợ con thân thuộc và tiền bạc kim cương không thiếu một xu nào..Sau khi đã hoàn hồn rồi mấy tên tẩu tướng hèn hạ bán đất nước cho quỉ đỏ lại tỏ ra hãy còn khóai trò cải lương phùng xòe thích được đám quân hầu đầy tớ diện quân phục , đeo huy chương lủng lẳng, dàn chào, đón rước với quân nhạc inh tai nhức óc. Ôi, liêm sỉ của bọn này đã bi lũ chó đói sơ mất rồi ?!)

Trước hết bạn đọc có quyền nghĩ đến đại tướng Trần Thiện Khiêm, kiêm thủ tướng chánh phủ và thân nhân trong gia đình nhà ông ta. Riêng bản thân đại tướng Trần Thiện Khiêm, tôi được biết cách vô cùng đích xác, sau khi vừa tốt nghiệp Vệ Binh Nam Phần( trước kia tôi đã lầm lẫn cho rằng ông Khiêm tốt nghiệp trường Võ Bị QG Đà Lạt. Nay xin cải chính lại cho đúng), ông ta đã đào ngũ chạy theo Việt Minh một thời gian ở Đồng Tháp Mười, giống hệt như trường hợp của tướng Lâm Văn Phát. Tướng Phát chạy vào khu theo CS hồi tháng 7 , năm 1947, tại Cồn Chim.

Các tướng Khiêm và Phát đã được CS cho thụ huấn quân sự bổ túc trong trường quân chính của quân khu. Ngoài ra, còn có tướng Phan Hòa Hiệp ( Tây lai tên thật là Francois Hiệp, sau đổi sang tên VN, gọi trại ra họ Phan, chứ không phải gốc họ Phan !) trong phái đòan quân sự 4 bên cũng đã từng theo VM một thời gian.

Ngoài bản thân của đại tướng Trần Thiện Khiêm, trong suốt thời kỳ đệ nhị cộng hoà, thân nhân gia đình của ông và bên vợ ông còn đứng đầu nhiều dịch vụ buôn lậu thuốc tây và võ khí cho quân CSBV. Họ thường giao hàng cho địch quân bằng tàu hải quân tại mũi biển Vũng Rô. Trong thời gian ở quê nhà hẳn bạn đọc còn nhớ thỉnh thoảng báo chí đăng tin về những vụ chuyên chở , buôn bán đồ lậu ở mũi biển Vũng Rô v.v…
Đó là những thành tích dịch vụ làm giàu của thân nhân đại tướng thủ tướng đó. Tuy nhiên, tôi vẫn không đề quyết đại tướng Trần Thiện Khiêm đã làm gián điệp bán tin tình báo cho CSBV và toà đại sứ Mỹ.

Vì tôi biết rằng trong hàng tướng lãnh thân cận của Thiệu còn có trung tướng Đặng Văn Quang và thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình,ngoài mặt thì là ” công bộc ” của chế độ VNCH, nhưng trong bóng tối 2 tay này còn là nhân viên bán tin tình báo cho toà đại sứ Mỹ ởõ Việt Nam. Vậy, họ có bán tin cho CSBV không?

Trong một tác phẩm viết về thảm hoạ mất miền namVN, Frank Snepp, một chuyên gia phân tách tin tức chiến lược của CIA Mỹ ở Saigon đã tiết lộ như sau:

-“…Từ đó mục tiêu của sứ quán Mỹ là củng cố bằng mọi giá chế độ Thiệu, để cho Mỹ có thể rút quân ra khỏi VN mà không sợ bùng nổ một khủng hoảng nào. Vì thế , tháng 10, năm 1972, chúng tôi đã mua chuộc và ủng hộ nhiều nhân vật chánh trị, quân sự VN, nhân viên tình báo trong chánh phủ Saigon hợp tác với chúng tôi. Shackley đã mua chuộc được tướng Đặng Văn Quang , viên cố vấn về an ninh tình báo của Thiệu, hoạt động cho CIA Mỹ. Shackley lại còn xử dụng luôn được cả tướng Nguyễn khắc bình, viên chỉ huy ác độc của cảnh sát miền Nam…”Như thế , vấn đề có thể được nêu lên:” Tại sao biên bản phiên họp tối mật về quân sự trong 2 ngày : 9 và 10 . 12. 74, trong dinh Độc Lập lại lọt vào tay đại sứ Mỹ Martin đồng thời với bộ tư lệnh quân uỷ miền Nam và quân uỷ trung ương đảng tại Hà Nội ? Phải chăng đã do một trong 2 viên tướng an ninh , tình báo đã làm phản Thiệu, phản lại nhân dân, và toàn thể anh em binh sĩ miền Nam VN? “

Tất cả những câu hỏi nêu trên hiện nay đều còn là nghi vấn. Các đương sự trong cuộc hiện đang còn sống ở Mỹ và Canada chẳng ai dại gì ” lạy ông tôi ở bụi này ” .

( Foto: Trung tướng Đặng Văn Quang, ngoại danh là “ÔNG ĐỊA”, có vấn an ninh cùa TT Thiệu, lừng danh tham nhũng, buôn lậu bạch phiến, làm kinh tài cho Thiệu…lại còn lừng danh trong giới thân hữu là “vua Sơ Vơ “!nhưng nơi đây ta không đề cập đến những giai thoại sợ vợ của tướng Quang. Vì xét ra, thành tích sợ vợ của tướng Quang còn thua rất xa cựu đại tá KQ, GS Nguyễn Xuân Vinh! Nơi đây tôi chỉ đề cập đến nghi vấn năm 1975, tướng ĐV Quang có bán tài liệu mật trong cuộc họp của dinh Độc Lập cho CSBV và tòa đại sữ Mỹ hay không?)

Về phần nhà báo là tôi, dù hiện nay đang sống ở Tây phương tự do, được luật pháp báo chí che chở, nhưng vẫn chưa phải lúc để phanh phui hết mọi sự thật trần truồng của một tấn tuồng đã hạ màn quá vội vã. Vì hiện nay, ở ngoại quốc, những phần tử phản quốc hại dân, khi chạy ra khỏi nước đã đem theo gần hết của cải , tài sản khổng lồ của một quốc gia, cùng với một đám tay chân thủ hạ đông đảo đang được nuôi dưỡng phủ phê bằng tiền không mồ hôi nước mắt ấy, sẵn sàng thi hành đủ mọi thủ đoạn đen tối, để bưng bít dư luận. Bởi thế bạn đọc còn phải chờ thời gian lâu nữa mới có cơ hội biết thêm những bộ mặt phản dân hại nước , đã âm mưu bán đứng miền Nam cho CSBV.
Bây giờ trở lại vấn đề ” tiết lộ bí mật quốc phòng ” cho địch quân biết, theo sự hiểu biết của tôi, ngoài các tướng kể trên, còn có một nghi vấn khác nữa cũng đáng được nêu ra đây để bạn đọc bốn phương cùng suy ngẫm. Đây là nhóm tình báo chiến lược, còn gọi là cụm A 22, do Vũ Ngọc Nhạ , một thầy tu xuất, con chiên thân cận cuả các đấng tu hành nổi tiếng , đầy quyền uy và thế lực trong khối Thiên Chuá giáo di cư chống Cộng dữ dội (sic!). Vũ Ngọc Nhạ vốn là một cán bộ điệp báo của CSBV, đã mang quân hàm thiếu tướng, được cài vào Nam để ” trèo cao, chui sâu” hoạt động ngay trong dinh Độc Lập suốt thời tổng thống Thiệu cầm quyền ở miền Nam. Nguyễn Văn Thiệu đã tin dùng và trọng vọng mời Vũ Ngọc Nhạ vào dinh Độc Lập cho đóng vai “quân sư đặc biệt” về mọi mặt. Hoạt động chung quanh Vũ Ngọc Nhạ còn có một số đông linh mục Thiên Chúa giáo,như: Trần Ngọc Nhuận ,răng hô, mặt rỗ, cha sở nhà thờ Phú Nhuận,LM Hoàng Quỳnh, LM Thanh Lãng…

Riêng cha Nhuận còn được vợ chồng Nguyễn Văn Thiệu đặc biệt tin dùng trong mọi dịch vụ giao tế riêng tư và việc làm lễ hàng tuần trong dinh Độc Lập. Đến ngày 27. 1. 1973, hiệp định Paris được 4 bên ký kết. Ngày hôm sau lệnh ngừng bắn có hiệu lực. Một thời gian ngắn sau,các điệp viên cao cấp của CSBV, gồm Nhạ, Trọng,, cùng với một số đồng phạm khác được chuyển về Sài Gòn, trong chương trình trao đổi tù binh giữa đôi bên. Ngày 23. 7. 1973, Vũ Ngọc Nhạ và Huỳnh Văn Trọng được trao trả cho bộ tư lệnh miền, trụ sở đóng tại Lộc Tấn, trong vùng Lộc Ninh.

Đến đầu tháng 3, năm 1974, giữa lúc tình hình miền Nam đang rối loạn,Vũ Ngọc Nhạ cùng đồng bọn lại tiếp tục hoạt động, lập một cụm tình báo chiến lược mới, do chính Vũ Ngọc Nhạ làm cụm trưởng , kiêm bí thư chi bộ. Lần này bọn chúng thiết lập cơ sở riêng, bí mật, không nương theo các nhà thờ nữa,và nằm ngay trung tâm thủ đô Sài Gòn, và đặt đường dây liên lạc trực tiếp với bộ tư lệnh miền, qua sự trực tiếp liên hệ của Ba Trần, tức thiếu tướng Trần Văn Danh, tham mưu phó miền, đặc biệt phụ trách tổ chức và điều khiển đoàn tình báo chiến lược. Theo sự tìm hiểu của tôi, Trần Văn Danh sanh quán ở Hốc Môn, xuất thân là công nhân xưởng sửa chữa tàu Ba Son, ( thời Tây gọi là Ba Son, thời sau gọi là Hải Quân Công Xưởng ).

Ba Trần đã tham gia Nam bộ kháng chiến từ mùa thu năm 1945, khổ người cao ráo, nước da trắng trẻo, béo tốt. Sau hiệp định đình chiến Paris, Trần Văn Danh còn được cử làm phụ tá cho Trần Văn Trà trong nhiều nhiệm vụ quan trọng khác, phần nhiều đều liên quan xa gần đến các điệp vụ nội thành. Vì Trần Văn Danh vốn là người sanh trưởng ở Hốc Môn, lại từng làm việc ở Sài Gòn ,rành rẽ mọi đường đi nước bước trong mỗi hang cùng ngõ hẻm của thủ đô, và trong suốt thời gian tham gia kháng chiến cho đền ngày cùng của chế độ miền Nam,Trần Văn Danh vẫn thường nắm được nhiều đường dây hoạt động bí mật trong nội thành.

Khi Vũ Ngọc Nhạ được lệnh của bộ tư lệnh miền trở lại tiếp tục hoạt động tình báo chiến lược trong gia đoạn mới ngay tại Sài Gòn, Vũ Ngọc Nhạ liền bắt liên lạc trở lại với các đồng chí thân cận, nằm vùng trong hàng ngũ Thiên chúa giáo như các cha: Trần Ngọc Nhuận, cha Hoàng Quỳnh (nổi tiếng chống Cộng ghê gớm trong vùng Bùi Chu, Phát Diệm (síc!) , cha Thuỵ, cha Nguyễn Quang Lãm, LM Nguyễn Ngọc Lan, LM Chân Tín, LM Thanh Lãng,, LM Trần Hữu Thanh, chủ tịch phong trào bài trừ tham nhũng,…

Đặc biệt nhất là Vũ Ngọc Nhạ đã nhờ cha Nhuận nối lại đường giây liên lạc ngầm với vợ chồng Nguyễn Văn Thiệu. Tất cả mọi tin tức chuyển giao giữa vợ chồng Thiệu và Vũ Ngọc Nhạ từ đó đều qua trung gian của cha Nhuận. Vì Nhạ không thể xuất hiện công khai trong quần chúng , và nhất là sợ con mắt tò mò soi mói của nhà báo.

Khi mặt trận Tây Nguyên bị tan vỡ, vợ chồng Thiệu đã lo sợ cuống cuồng, vội vàng nhờ cha Nhuận tìm mọi cách liên lạc gấp với Vũ Ngọc Nhạ, mời Nhạ , giả trang, lén vào dinh Độc Lập, để thỉnh ý về các vấn đề chánh trị và quân sự đang rối bời, và nhất là khẩn khoản cầu xin được Vũ Ngọc Nhạ tìm mọi cách ” NÓI LÓT” trước với phe bên kia ( tức bọn CSBV và MTDTGPMNVN ), để nếu có bề gì gia đình Nguyễn Văn Thiệu cũng không bị sát hại. Nhưng vì lúc bấy giờ tình hình biến chuyển quá nhanh chóng, chẳng khác nào một cơn lốc, Vũ Ngọc Nhạ chưa kịp thu xếp vào dinh Độc Lập theo lời mời khẩn thiết của vợ chồng Nguyễn Văn Thiệu, nên chỉ viết một lá thư ngắn nhờ cha Nhuận trao tay lại cho vợ chồng Thiệu. Nội dung bức thơ này Vũ Ngọc Nhạ đã trấn an vợ chồng Thiệu và cam kết : Trong mọi tình huống, sẽ tìm mọi cách để cho Thiệu không lâm nạn như trường hợp cố tổng thống Ngô Đình Diệm.( Theo tôi biết, kể từ khi lên làm tổng thống, Nguyễn Văn Thiệu vẫn luôn luôn bị cái chết thảm của anh em ông Diệm ám ảnh rất nặng nề, khiến ông ta rất sợ đảo chánh xảy ra. Đến những ngày cuối cùng của tháng 4.75, hình ảnh cái chết thảm của ông Diệm, nằm co quắp , máu me đầy mình, trong chiếc thiết vận xa lại càng ám ảnh Thiệu dữ dội hơn.Thiệu càng lo sợ cuống cuồng hơn. Lo sợ mọi mặt. Lo sợ phe ta đảo chánh. Lo sợ bị tụi CSBV và MTDTGPMNVN vồ được…nên đã hạ mình đến nhục nhã với Vũ Ngọc Nhạ và cha Nhuận để van xin một kiếp sống thừa !)

Như thế tôi thiết tưởng, cái mầm mống thất thủ mặt trận Tây Nguyên, và cũng là ” NGUYÊN NHÂN CHÍNH YẾU đã xảy ra THÁNG TƯ ĐEN ,34 năm trước đây”đã nằm ngay trong dinh Độc Lập, và nằm ngay trong hành động của chính TT Nguyễn Văn Thiệu cùng một số tướng lãnh thân cận. Chúng ta chẳng cần phải tìm đâu xa!

Tuy nhiên,ta còn phải kể đến trách nhiệm của tướng Phạm Văn Phú và bà vợ người Tàu tên Lâm Đệ Đệ, cùng với đại tá Luận thiết giáp, gốc người miền Tây, lúc đó đang giữ chức tỉnh trưởng kiêm chỉ huy trưởng tiểu khu Ban Mê Thuột và đại tá Vũ Thế Quang , mà anh em giang hồ tụi tôi thường quen gọi là Quang Dù , lúc đó đang đóng vai trò tư lệnh phó sư đoàn 23 BB ( hay 22 BB? Vì đã lâu ngày tôi không còn nhớ rõ!)có trách nhiệm diện địa…

Nhưng cả hai ông đại tá này lại ham chơi , ham vơ vét hơn lo chu toàn trách nhiệm. Từ năm 1970 tôi thường có mặt ở Ban Mê Thuột, với Ba Đông , còn có ngoại hiệu là Tôn Tẫn, con rể của cụ Lương Trọng Tường, hội trưởng Giáo Hội PGHH và anh Hai Phan, chủ tịch Nghiệp Đoàn Khai Thác Lâm Sản. Tôi và Ba Đông lên đó làm rẫy trồng đậu xanh, bí đao, Đu Đủ …Còn anh Hai Phan lo việc khai thác rừng lấy gỗ. Ngoài ra tôi còn có 2 người học trò cũ,tên Ng, Văn Thới làm trưởng ty nông lâm súc, và Ng. Văn Trường, cựu sĩ quan KQ giải ngũ, làm trưởng ty Điền Địa… Đến khoảng đầu năm 1975, lúc gần tết, tôi đã được bọn làm rừng rỉ tai cho biết bọn CSBV đã kết tập quanh Ban Mê Thuột, xe cộ chạy tấp nập suốt ngày đêm trong rừng .Chúng vội vã lập đường giây điện thoại và chôn ống dẫn dầu… Tôi biết ngay đó là dấu hiệu quân CSBV đang chuẩn bị tấn công Ban Mê Thuột, nên nhân một dịp gặp ĐT Luân, tỉnh trưởng, tôi đã kể cho anh ta nghe. Nhưng thái độ của anh ta xem chừng không mấy quan tâm đến chuyện sinh tử của đất nước, và an nguy của hàng chục vạn sinh linh sống dưới quyền cai trị của anh ta hơn là chuyện ăn nhậu, chơi gái và ”thu hụi chết” của kẻ dưới tay và ăn tiền hối lộ đốn phá lâm sản của nghiệp đoàn khai thác lâm sản. Cả Vũ Thế Quang cũng vậy. Lần này, Vũ Thế Quang cũng không khác gì Tết Mậu Thân. Trong đêm khuya khi quân CSBV đột ngột tấn công vào khắp thủ đô Sài Gòn và dinh Độc Lập. Giữa tiếng AK nổ vang trời như tiếng pháo, Quang Dù, lúc đó đang giữ chức vụ chỉ huy trưởng Liên Đoàn Bảo Vệ Dinh Độc Lập hãy còn mải mê say sưa kề vai cọ má với đám gà móng đỏ nực mùi son phấn, nhún nhẩy sập sình theo tiếng trống kèn inh ỏi trong vũ trường Maxim sang trọng nhất thủ Đô !

Hôm sau Quang Dù đã nhanh chân chạy ra tòa soạn gặp tôi, năn nỉ xin đứng loan tin đêm ấy phải bỏ Maxim chạy về nhiệm sở, chui lỗ chó vào dinh chiến đấu!… Quang Dù nói với tôi:

– Anh mà cho đăng tin này lên báo, cha Thiệu và anh râu kẽm sẽ cạo đầu tôi không còn sợi tóc nào đó nghe!…

( còn tiếp)

ĐẶNG VĂN NHÂM

KỲ TỚI : ĐIỂM MẶT CÁC TƯỚNG, TÁ NẰM VÙNG CHO CSBV

http://www.dangvannham.com/modules/news/article.php?storyid=756


hồ chí minh súc vật, nông đức mạnh súc vật, nguyễn tấn dũng súc vật, nguyễn minh triết súc vật, dcsvn súc vật, ditmecodosaovang, ditmehochiminh, ditmenongducmanh, ditmenguyentandung, ditmenguyenminhtriet, ditmephanvankhai, dadaocongsan, latdocongsan, tieudietcongsan, hochiminhsucvat, sucvathochiminh, sucvatnongducmanh, sucvatnguyentandung, sucvatnguyenminhtriet, dadaovietcong, iavaomathochiminh, iavaomatnongducmanh, iavaomatnguyentandung, iavaomatnguyenminhtriet, súc vật lê khả phiêu, lê khả phiêu súc vật, suc vat le kha phieu, le kha phieu suc vat , le kha phieu, suc vat vo nguyen giap, sucvatvonguyengiap, vonguyengiapsucvat, súc vật võ nguyên giáp, võ nguyên giáp súc vật, ditmevonguyengiap, iavaomatvonguyengiap